Tiểu sử về ca sĩ Shakira – Xemloibaihat.com mới cập nhật

Có phải bạn đang muốn tìm hiểu về tiểu sử các ca sĩ, nhạc sĩ phải không? Có phải bạn đang muốn tìm hiểu Tiểu sử về ca sĩ Shakira đúng vậy không? Nếu đúng như thế thì mời bạn xem nó ngay tại đây nhé.

Tiểu sử về ca sĩ Shakira – Cập nhật chi tiết hôm nay.

Thông tin nghệ sĩ

  • Tên thật:    Shakira Isabel Mebarak Ripoll
  • Nghệ danh: Shakira
  • Nơi sinh: 2 tháng 2, 1977 (38 tuổi)
  • Nguyên quán: Flag of Colombia.svg Barranquilla, Colombia
  • Nghề nghiệp: ca sĩ, nhạc sĩ, vũ công, nhà sản xuất đĩa, diễn viên
  • Thể loại: Pop, Latin, Rock, R&B, Dance
  • Nhạc cụ: Giọng ca, ghi-ta, kèn harmonica, trống, bộ gõ
  • Năm hoạt động: 1991 – đến nay

 

Nữ ca Shakira chân dung ca sĩ Shakira

Shakira Isabel Mebarak Ripoll (sinh ngày 2 tháng 2 năm 1977) là một ca sĩ, nhạc sĩ, nhạc công người Colombia, một trong những ca sĩ nhạc Rock thành công nhất thế giới. Cô bắt đầu nổi tiếng khi phát hành album phòng thu thứ 2 được mang tên ¿Dónde Están los Ladrones?, gây chú ý đến giới chuyên môn âm nhạc và gặt hái được nhiều thành công bằng chứng là cô giành được đề cử trong lễ trao giải Grammy năm 1999 ở hạng mục Album Latin Rock xuất sắc nhất, đồng thời đó cũng là lần đề cử đầu tiên của cô. Sau khi giành được thành công đó cô cho ra đời live diễn đầu tiên của mình được gọi là MTV Unplugged và giành được giải Grammy đầu tiên của cô ở hạng mục Album Latin Pop xuất sắc nhất vào năm 2001. Với đà thành công, đó Shakira đã triển khai thực hiện album tiếng Anh được mang tên Laundry Service vào năm 2001, đã trở thành album bán chạy nhất của năm 2002 với số đĩa bán ra hơn 20 triệu đĩa và lọt vào top các Album bán chạy nhất của thế kỉ, album còn mang về cho Shakira 1 giải Latin Grammy ở hạng mục Video hình thái ngắn xuất sắc nhất cho ca khúc hits nhất trong album, Suerte (Whenever, Wherever). Tiếp tục sự nghiệp cô cho ra đời album tiếp theo mang tên Fijación Oral, Vol. 1, đã gây sốc đến giới chuyên môn và khán giả yêu nhạc, album đã thành công ngoài sức tưởng tượng, trở thành album thành công nhất trong năm 2006 được sánh ngang bằng với album The Emancipation of Mimi của nữ ca sĩ Mariah Carey, album đã mang về cho cô tổng cộng 32 giải thưởng trên 50 đề cử, trong đó có 1 giải Grammy ở hạng mục Album Latin Rock xuất sắc nhất, và 4 giải Latin Grammy bao gồm những mục quan trọng như: Album của năm, Thu âm của năm, Bài hát của năm, Album giọng Pop xuất sắc nhất. Tiếp nối thành công cô tiếng tục cho ra đời album tiếp theo được mang tên, Oral Fixation, Vol. 2 mang về cho cô 1 đề cử giải Grammy ở hạng mục Hợp tác nhạc Pop xuất sắc nhất, và tiếp tục được đề cử hạng mục đó cho vào năm 2008 cho ca khúc Beautiful Liar hát chung với nữ ca sĩ nhạc R&B, Beyoncé. Shakira trở lại âm nhạc vào năm 2009, với single She Wolf đã gây được sự chú ý của giới khán giả, mang về cho Shakira 2 đề cử giải MTV Europe Music Awards ở hạng mục Nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất và Video xuất sắc nhất. Shakira hiện có các hit từng đứng hàng đầu thế giới như: Hips Don’t Lie (2005), Whenever, Wherever (2002), Beautiful Liar (2007), Ojos Así (1999), Underneath Your Clothes (2002), Objection (Tango) (2002), She Wolf (2009), La Tortura (2005), Give It Up To Me (2009), Waka Waka (This Time for Africa) (2010), Can’t Remember to Forget You (2014) và Dare (La La La) (2014).

Shakira đã từng giành 2 giải Grammy trên 5 lần đề cử và 7 giải Latin Grammy, 4 giải MTV Video Music Awards, 1 lần đề cử giải Quả Cầu Vàng và 17 giải Premios Lo Nuestro.

Shakira là người Colombia đầu tiên nhận được ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood. Shakira có số lượng đĩa bán ra 50 triệu đĩa cũng là nghệ sĩ một trong những nghệ sĩ có số lượng đĩa bán chạy nhất thế giới, hiện nay cô đang là người giữ kỉ lục của giải Latin Grammy về Nữ nghệ sĩ giành được nhiều giải nhất. Shakia còn được biết đến với chỉ số thông minh IQ rất cao, khoảng 140. Thậm chí, cô còn được mời thuyết giảng tại Đại học danh tiếng bậc nhất thế giới, Oxford.

Tiểu sử
Tuổi thơ và khởi đầu sự nghiệp

Shakira sinh ra tại Barranquilla, Colombia. Mẹ cô là bà Nidia del Carmen Ripoll Torrado, người Colombia có nguồn gốc Tây Ban Nha và Ý. Bố cô là ông William Mebarak Chadid, là người Mỹ và có nguồn gốc Ả Rập (Liban) và Macedonia. Cô có 7 anh chị em, một trong số họ là người quản lí của cô. Shakira bắt đầu viết nhạc từ năm cô lên 8 tuổi. Một trong những ca khúc đầu tiên của cô có tên gọi Tus gafas oscuras/ Your dark glasses viết về nỗi đau khổ của cha cô khi phải chứng kiến một cậu con trai của ông chết trong một tai nạn xe hơi. Đến năm 10 tuổi, Shakira tham dự trong dàn hợp xướng của trường nhưng rốt cuộc không được chọn vì giọng của cô quá “mạnh mẽ”. Cô từng bị bạn bè trêu chọc vì những âm thanh mà cô phát ra như “tiếng dê kêu”. Kết quả là Shakira buộc phải tìm kiếm những cơ hội theo đuổi sự nghiệp hát hò khác.

Trong những năm từ 10 đến 13 tuổi, Shakira được mời đến dự nhiều sự kiện lớn tại quê hương Barranquilla của cô và giành được nhiều cảm tình từ người dân nơi đây. Cũng trong thời gian này, cô gặp nhà sản xuất Monica Ariza – người có nhiều ảnh hưởng đến cô và giúp đỡ cô trong những ngày đầu lập nghiệp. Trong chuyến bay từ Barranquilla tới Bogotá, Ariza đã thuyết phục giám đốc Ciro Vargas của công ty Sony Colombia cho Shakira một cơ hội thử giọng trong một khách sạn. Vargas đã nâng đỡ Shakira rất nhiều. Ông nhận ra Shakira là một tài năng hiếm có và đã giúp cô có được 3 hợp đồng ghi album đầu tiên với hãng Sony.

Magia (Magic) là album đầu tay của Shakira ghi âm cùng với hãng Sony Colombia năm 1991 khi cô mới 15 tuổi. Sau “Magia”, Shakira cho ra đời album thứ 2 năm 1993 mang tên Peligro (Danger), nhưng vì số lượng đĩa tiêu thụ vô cùng nghèo nàn nên 2 album trên không còn tồn tại và không được công nhận là album phòng thu đầu tiên của cô.

1995-2000: Thành công tại Mỹ Latin và Tây Ban Nha
Shakira quay lại thu album thứ 3 của cô vào năm 1995. Album này mang tên Pies Descalzos (Bare Feet) đã mang về cho cô danh tiếng tại Châu Mĩ Latin và có số lượng đĩa bán ra hơn 7 triệu đĩa trên toàn thế giới. Các ca khúc “Estoy Aquí”; “Pies Descalzos, Suenos Blancos”, “Dónde Estás Corazón?” và Un Poco de Amor đã trở thành ví dụ điển hình cho văn hoá nhạc Pop. Pies Descalzos bán được hơn 4 triệu bản. Chính thành công này đã khiến cô cho ra đời thêm album phối khí lại mang cái tên đơn giản là “The Remixes”, bán được hơn 1 triệu bản. Album này bao gồm cả phiên bản tiếng Bồ Đào Nha rất thành công tại thị trường Brasil. Vào năm 1997, Shakira giành được 3 giải Billboard Music Awards bao gồm: Album của năm cho “Pies Descalzos”, Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất, Video của năm cho “Un Poco de Amor”. do các thành công đó cô được công nhận là một trong những nghệ sĩ có triển vọng thành công lớn và tầm cỡ quốc tế.

1998-2000: ¿Dónde Están los Ladrones? và MTV Unplugged
Album thứ 4 của cô mang tên ¿Dónde Están los Ladrones? (Where are the thieves?) sản xuất năm 1998 do Emilio Estefan với chi phí 3 triệu đôla. Tuy nhiên cái giá đó không hề đắt vì chính album đó lại đem về cho cô 7 triệu đôla và kèm theo số lượng đĩa bán ra hơn 10 triệu đĩa, sau đó album được công nhận là album Latin bán chạy nhất của mọi thời đại. Cô bắt đầu tạo dựng tiếng tăm của mình tại các nước không sử dụng tiếng Tây Ban Nha như Pháp, Thụy Sĩ, Canada và đặc biệt là Mĩ. 8 trong số 11 ca khúc của album được ghi lại dưới dạng đĩa đơn bao gồm “Ciega, Sordomuda”; “Moscas en la Casa”; “No Creo”; “Inevitable”; “Tú”; “Si Te Vas”; “Octavo Día” và “Ojos Así”. Vào năm 1999, Shakira rất vinh dự được đề cử giải Grammy cho Trình diễn nhạc Latin Rock xuất sắc nhất, nhưung giải thưởng đã thuộc về Maná, chứ không thuộc về cô.Đến năm 2000, Shakira giành được giải MTV Video Music Awards cho Nghệ sĩ người Mỹ Latin có Video được yêu thích nhất cho Ojos asi.

Cũng trong năm 1999, Sau khi được đề cử trong giải Grammy Award dành cho Trình diễn nhạc Latin Rock xuất sắc nhất” Shakira bắt đầu tiến hành thực hiện live show đầu tiên của cô. Sau khi diễn xong cô phát hành ra đĩa và bán ra hơn 5 triệu đĩa trên toàn thế giới. Vào năm 2001, Shakira đã xuất sắc vượt qua các nghệ sĩ như: Christina Aguilera, Oscar de la Hoya, Luis Miguel, Alejandro Sanz để chiến thắng giải Grammy cho Album Latin Pop xuất sắc nhất cho show diễn đầu tiên của cô MTV Unplugged và đồng thời cũng giành được 2 giải Latin Grammy cho Trình diễn giọng nữ Rock xuất sắc nhất cho ca khúc Octavo Día và Trình diễn giọng nữ Pop xuất sắc nhất cho ca khúc Ojos Así, còn đề cử danh giá Album của năm thì không giành được giải.

2005-2007: Thành công ngoài sức tưởng tượng với Fijación Oral, Vol. 1 và Oral Fixation, Vol. 2
Tháng 6 năm 2005, Shakira phát hành album Fijación Oral Vol. 1 tại Châu Âu, Bắc Mĩ và Úc. Ca khúc dẫn đầu trong album này là “La Tortura”/ The Torture đứng đầu tại Tây Ban Nha và đứng thứ 23 trong top 100 của Billboard Hot 100. Bài hát này còn gặt hái thành công trên khắp thế giới. Album này còn mang về cho Shakira giải Grammy thứ 2 của cô dành cho Giải Grammy cho album Latin Rock xuất sắc nhất và album này còn mang về cho thêm 5 giải Latin Grammy trong đó có 4 mục quan trọng: Album của năm, Thu âm của năm, Bài hát của năm, Album giọng Pop xuất sắc nhất. Trước khi cho ra album thứ hai bằng tiếng Anh “Oral Fixation Vol. 2”, cô xuất hiện trong lễ trao giải MTV Music Châu Âu và được đề cử cho giải nữ ca sĩ xuất sắc nhất. Cô khiến cho khán giả thậm chí cả các ngôi sao gạo cội trong làng âm nhạc phải ngạc nhiên khi cô qua mặt các nghệ sĩ tên tuổi quốc tế như Gwen Stefani. Sau khi giành được chiến thắng, cô cùng các vũ công trình bày luôn ca khúc đặc sắc nhất trong album này, “Don’t Bother”.

Album thứ hai bằng tiếng Anh của cô mang tên Oral Fixation Vol.2 được phát hành vào tháng 11 năm 2005 ở Bắc Mĩ và Úc. Album được bán ra hơn 8 triệu đĩa trên toàn thế giới, cũng là album bán chạy nhất trong năm 2006. Với thành công của ca khúc Hips Don’t Lie đã đứng đầu tất cả các bảng xếp hạng ở các nước trong năm 2006 và càng được biết đến với phiên bản Bambo tại World Cup 2006, ca khúc trở thành một trong những bài hát được yêu thích nhất mọi thời đại vượt kỉ lục Guinness, Hips Don’t Lie đứng vững trên bảng xếp hạng suốt 6 tháng liên tiếp, không có đối thủ vượt qua nổi, khi We Belong Together của Mariah Carey đứng ở vị trí thứ 2, Hips Don’t Lie còn phá vỡ bảng xếp hạng Billboard Hot 100 đứng nhất bảng xếp hạng trong vòng 2 tuần. Với thành công kèm theo, bảng single tiêu thụ hơn 13 triệu bản trên toàn thế giới, trở thành một trong những bản single bán chạy nhát của mọi thời đại và trở thành ca khúc được yêu thích nhất trong năm 2006.

Vào năm 2007,Shakira rất vinh dự được mời biểu diễn tại lễ trao giải Grammy 2007 ca khúc Hips Don’t Lie, đồng thời ca khúc mang về cho Shakira đề cử giải Grammy thứ 4 của cô ở hạng mục Hợp tác giọng Pop xuất sắc nhất. Cũng trong năm này, Shakira cùng với Beyonce Knowles hợp tác song ca bài hát Beautiful Liar, ca khúc đã trở thành một trong những thành công vượt bậc trong làn âm nhạc và là ca khúc được yêu thích nhất trong năm 2008, chỉ sau ca khúc Umbrella của Rihanna và Jay Z. Vào năm 2008, Shakira nhận được đề cử giải Grammy thứ 5 của mình ở đề mục Hợp tác giọng Pop xuất sắc nhất cho ca khúc Beautiful Liar.

Tháng 4 năm 2006, Shakira được tôn vinh trong một lễ từ thiện do Liên Hiệp Quốc tổ chức vì những đóng góp của cô trong việc bảo vệ trẻ em Colombia khỏi bạo lực. Tại buổi lễ đó, cô phát biểu: “Sau khi các bạn rời khỏi đây, xin đừng quên ở Châu Mĩ Latin có 960 trẻ em đang chết dần chết mòn”.

2009: Sự trở lại với She Wolf
Vào năm 2009, Shakira cho ra đời đĩa đơn tiếp theo, She Wolf và album cùng tên She Wolf sau nhiều năm vắng mặt, ca khúc và album đã gây sốc đến giới chuyên môn và vô cùng ngạc nhiên khi cô thay đổi hoàn toàn phong cách lẫn khuôn mặt hiền hậu, She Wolf đang đứng đầu các bảng xếp hạng của Mỹ, Anh và đặc biệt là thành công vượt bậc ở Châu Âu, đĩa nhạc được các giới chuyên môn đánh giá rất cao và một số nhà phê bình còn có nhiều khen ngợi, “Shakira đã khiến tôi thật ngỡ ngàng, She Wolf thật hay và thật lạ, tôi tin rằng ca khúc còn thành công hơn nữa và sẽ giúp cô đoạt được giải Grammy”. Điều đó quả thật không sai chút nào “She Wolf ngày càng lan rộng ra thị trường âm nhạc và chiếm ngôi vị đầu bảng xếp hạng ở nhiều nước. Trong năm đó, Shakira được nhận đề cử rất nhiều giải thưởng và đặc biệt là giải thưởng MTV Europe Music Awards, cô giành được 2 đề cử ở hạng mục Nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất và Video xuất sắc nhất cho ca khúc She Wolf nhưng cuối cùng giải thưởng lại thuộc về tay của nữ ca sĩ Beyoncé, cựu thành viên của ban nhạc Destiny’s Child đã thắng hết cả hai giải. Khán giả càng lúc càng sững sốt hơn khi cô hợp tác Timbaland hát ca khúc “Give Up To Me”, phá vỡ thị trường âm nhạc Mỹ, nhiều giới chuyên môn đánh giá rất cao cho đĩa nhạc. Rob Stringer – chủ tịch tập đoàn Columbia/Epic Label nói: “Xu hướng của các ngôi sao gốc Latin là họ thường có một đến hai bản thu phiên bản tiếng Anh gây ấn tượng mạnh sau đó họ quay lại hát tiếng Tây Ban Nha. Shakira đã làm rất tốt việc duy trì sự nghiệp của mình trên cả hai phương diện tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha.. Shakira đang đấu tranh với hình tượng các nghệ sĩ nữ mẫu mực để xây dựng hình tượng riêng của mình, nhưng cô cũng không bỏ bê sự nghiệp ca hát bằng tiếng Tây Ban Nha. Xét trên phương diện này, Shakira quả thật là người duy nhất thực hiện được kỳ tích đó”. Điểm khiến Shakira luôn khác biệt so với những bạn đồng lứa mình là dù trong phong cách nào, từ tango đến bossa nova, từ Andean đến reggaeton, các ca từ của cô cũng rất thông minh và có sức lay động rất lớn. Minh chứng cho điều đó là ca khúc ấn tượng “Ojos Así”, một giai điệu mang đậm âm hưởng Trung Đông với guitar điện từ album năm 1998 của cô mang tên “¿Dónde Estan los Ladrones?”. Một lần nữa trong “She Wolf”, Shakira lại đem lại cho người nghe âm điệu của miền Đông này. Rất nhiều giới chuyên môn cho rằng Shakira là một tài năng âm nhạc hiếm có, chưa có bất kì nghệ sĩ người Mỹ Latin nào có thể vượt bậc đến thế, cô sẽ luôn duy trì hình ảnh của mình trong lòng khán giả.

2010: Sale el Sol
Sale el Sol là album thứ 9 của Shakira, gồm phiên bản tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh, được phát hành ngày 31 tháng 8 năm 2010. Album mới ra lò đã xếp thứ 7 trên Billboard 200, và thứ nhất trên Billboard Top Latin Album, trở thành album thứ 4 lọt vào top 10 Billboard 200 của Shakira. Album này nằm trong bảng xếp hạng trong 12 tuần.

Album đã tiêu thụ được 250.000 bản ở Hoa Kì và hơn 4.000.000 bản trên toàn thế giới. Album này đã giúp cô giành được 3 đề cử cho giải Latin Grammy. Bao gồm: Album Latin xuất sắc nhất của năm và Giọng ca Latin xuất sắc nhất. Trong đó, cô giành được giải Giọng ca Latin nữ xuất sắc nhất. Gồm những đĩa đơn Sale el Sol, Loca, Rabiosa, Antes de las Seis và Addicted to You. Trong đó, Rabiosa và Loca đã đạt được 200 triệu lượt xem trên mạng xã hội Youtube.

World Cup 2010 tại Nam Phi

Shakira đang ở bước tiến phát triển nhất trong sự nghiệp của mình
Năm 2010, Shakira đã kết hợp cùng với băng nhạc Freshlyground cho ra mắt bài hát Waka Waka (This Time for Africa). Bài hát này đã được FIFA chọn làm bài hát chính thức cho World Cup 2010 tại Nam Phi, trong Listen Up! The Official 2010 FIFA World Cup Album phát hành ngày 31/5/2010. Waka Waka (This Time for Africa) đứng thứ 4 trong số những MV xem nhiều nhất trên các trang âm nhạc và bảng xếp hạng trên thế giới.

2014-2015: Shakira
Sau 4 năm vắng bóng trên thị trường âm nhạc, Shakira đã tung album phòng thu thứ 10 mang tên của mình. Gồm các đĩa đợn Can’t Remember to Forget You hợp tác cùng nữ ca sĩ gốc Barbados Rihanna, Nunca Me Acuerdo de Olvidarte (phiên bản tiếng Tây Ban Nha của Can’t Remember to Forget You) và Empire. Trong album còn có đĩa đơn Dare (La La La) là một trong những bài hát được chọn cho World Cup 2014. Đĩa đơn Can’t Remember to Forget You cũng đạt vị trí 15 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và đạt hơn 500 triệu lượt xem trên mạng xã hội Youtube. Đầu năm 2015, Shakira đã nhận lời hợp tác với ban nhạc Mexico Mana với bài hát Mi Verdad. Bài hát đã đạt đến vị trí đầu bảng của bảng xếp hạng Billboard Latin Songs và Billboard Latin Pop Songs.

Vũ đạo & cuộc sống đời thường
Vũ đạo
Shakira nổi tiếng nhờ kĩ năng vũ đạo của cô. Các bước nhảy chủ yếu dựa trên những động tác lắc hông nghệ thuật – một phần thể hiện dòng máu Liban của cô. Trong một cuộc phỏng vấn của kênh truyền hình MTV, mọi người cho rằng cô không bao giờ dùng ngực trong khi nhảy. Thế mà trong “La Tortura” và “Hips Don’t Lie”, khán giả được thưởng thức nghệ thuật dùng ngực trong các vũ điệu của cô.

Cuộc sống đời thường
Năm 2000, Shakira có hẹn hò với Antonio de la Rúa, con trai của tổng thống Argentina, Fernando de la Rúa. Cuộc tình này kéo theo hàng loạt các tít báo trên khắp Châu Mĩ Latin. Tháng 3 năm 2001, Antonio cầu hôn cô. Trong thời kì Fernando de la Rúa làm tổng thống, kinh tế của Argentina rơi vào khủng hoảng dẫn đến các cuộc nổi loạn vào tháng 12 năm 2001 tại đất nước này. Tuy lâm vào hoàn cảnh khó khăn nhưng De la Rúa và Shakira vẫn tiến hành lễ đính hôn.

Tháng 2/2011, Shakira bắt đầu mối quan hệ với trung vệ trẻ hơn 10 tuổi của FC Barcelona – Gerard Piqué, dù chưa có hôn thù nhưng moi người luôn nghĩ rằng họ là vợ chồng và có 2 cậu con trai tên là Milan Piqué Mebarak và Shasha Piqué Mebarak. thumb|Kết quả tình yêu của cô và trung vệ Tây Ban Nha Gerrand Pique là cậu bé khấu khỉnh Milan, và gần đây nhất Shakira đã hạ sinh cho chàng phi công trẻ một chàng hoàng tử mới là Shasa

Album

  • 1991: Magia
  • 1993: Peligro
  • 1996: Pies Descalzos
  • 1998: ¿Dónde Están los Ladrones?
  • 2001: Laundry Service
  • 2005: Fijación Oral, Vol. 1
  • 2005: Oral Fixation, Vol. 2
  • 2009: She Wolf
  • 2010: Sale el Sol
  • 2014: Shakira

Live:

  • 2000: MTV Unplugged
  • 2004:Live & off the Record
  • 2007:Oral Fixation Tour

Album tuyển tập:

  • 1997: The Remixes
  • 2002: Grandes Éxitos

Các đĩa đơn nổi bật

  • 2001    “Whenever, Wherever”    
  • 2002    “Underneath Your Clothes”    
  • 2005    “La Tortura” (với Alejandro Sanz)
  • 2006    “Hips Don’t Lie” (với Wyclef Jean)
  • 2007    “Beautiful Liar” (với Beyonce)
  • 2009    “She Wolf”
  • 2010    “Waka Waka (This Time for Africa)”
  •     “Loca” (với El Cata / Dizzee Rascal)
  • 2014    “Can’t Remember to Forget You” (với Rihanna) / Nunca Me Acuerdo de Olvidarte
  •     “Dare (La La La)”https://nguoi-noi-tieng.com/”La La La (Brasil 2014) (với Carlinhos Brown)

Ngoài xem chủ đề Tiểu sử về ca sĩ Shakira bạn có thể xem thêm nhiều tiểu sử các ca sĩ, nhạc sĩ, người nổi tiếng khác tại đây: https://xemloibaihat.com/tieu-su.

Tìm kiếm liên quan đến chủ đề Tiểu sử về ca sĩ Shakira – Thông tin ca sĩ cập nhật liên tục.

#Tiểu #sử #về #sĩ #Shakira.

Xem lời bài hát là nơi bạn có thể xem lyrics nhạc, hợp âm nhạc, mv ca nhạc, tiểu sử ca sĩ, tiểu sử nhạc sĩ, người nổi tiếng ở Việt Nam và trên thế giới.

Xin chân thành cảm ơn bạn đã xem những thông tin chúng tôi cung cấp. Nếu các bạn có nhu cầu tìm kiếm những thông tin khác liên quan đến âm nhạc thì bạn có thể xem nó ngay tại đây nhé.

Nguồn: nguoi – noi – tieng . com